Ký kết biên bản ghi nhớ thúc đẩy hợp tác, chuyển giao kết quả nghiên cứu giữa Ban chủ nhiệm Chương trình và đại diện Văn phòng Chính phủ. Ảnh: VGP/Hoàng Giang |
PGS.TS. Huỳnh Quyết Thắng, Hiệu trưởng trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Chủ nhiệm Chương trình KC.01/16-20 cho biết, Chương trình có 26 nhiệm vụ được triển khai thực hiện. Ban chủ nhiệm đánh giá các nhiệm vụ đã đáp ứng 80% mục tiêu, nội dung nghiên cứu và sản phẩm dự kiến của Chương trình.
Kết quả sản phẩm khoa học công nghệ đạt được gồm 18 loại sản phẩm thiết bị máy móc (281 thiết bị), 44 sản phẩm phần mềm, cơ sở dữ liệu, 30 bài báo trên các tạp chí quốc tế uy tín, 28 bài báo trên chí trong nước, 34 bài báo trong hội thảo quốc tế, 8 bài báo hội thảo trong nước, đào tạo 78 thạc sĩ, tham gia đào tạo 35 tiến sĩ, 19 sản phẩm được đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Đáng chú ý, các nhóm nghiên cứu đã làm chủ công nghệ, chế tạo một số sản phẩm phần cứng, phần mềm đáp ứng yêu cầu phát triển và hoàn thiện hạ tầng công nghệ thông tin nhằm triển khai hiệu quả Chính phủ điện tử, trong đó một số sản phẩm đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và quốc tế.
Có thể kể đến một số sản phẩm thiết bị phần cứng có khả năng đưa vào sản xuất thử nghiệm hoặc sản xuất thương mại như: Thiết bị chuyên dụng giám sát hạ tầng công nghệ thông tin, máy tính an toàn, camera bảo mật, thiết bị chuyển mạch, hệ thống Kios, vi mạch bảo mật cho thiết bị IoT…
Hay nhiều giải pháp phần mềm, ứng dụng nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước đã được đưa vào thực tiễn như: Phần mềm cung cấp dịch vụ hành chính công cấp tỉnh trên cơ sở nền tảng chia sẻ, tích hợp dữ liệu cấp tỉnh (LGSP) được triển khai tại Quảng Nam; hệ thống cung cấp dịch vụ công trực tuyến trong lĩnh vực quản lý đất đai ứng dụng công nghệ chuỗi khối (blockchain) được Bộ TN&MT tích hợp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia…
Theo Báo cáo xếp hạng an toàn, an ninh mạng toàn cầu (GCI 2020) được Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) công bố tháng 7/2021, Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 25 trong 194 quốc gia, vùng lãnh thổ, đứng thứ 7 trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương và thứ 4 khu vực ASEAN. Điều này đã cho thấy sự nỗ lực, cũng như quyết tâm rất lớn của Việt Nam, trong đó có sự đóng góp của Chương trình KC.01/16-20.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Văn Tùng đánh giá các sản phẩm nghiên cứu của Chương trình về cơ bản đã phủ đều 3 mục tiêu mà Bộ trưởng Bộ KH&CN đã đặt ra tại Quyết định số 3885/QĐ-BKHCN ngày 06/12/2016 và được ứng dụng trong thực tiễn tại nhiều bộ ngành, địa phương.
Tuy nhiên, cũng phải thẳng thắn thừa nhận rằng, đến thời điểm tổng kết, Chương trình KC.01/16-20 đã thiếu vắng loại hình nhiệm vụ là dự án sản xuất thử nghiệm, sự tham gia của doanh nghiệp còn có phần hạn chế, chưa huy động được nhiều nguồn vốn từ ngoài ngân sách nhà nước, đặc biệt là chưa có sự tham gia đông đảo trong việc thực hiện nhiệm vụ từ các bộ, ngành có nhiều dịch vụ công như Tài chính, Kế hoạch - Đầu tư, Giao thông Vận tải, Y tế…
Ban Chủ nhiệm Chương trình giai đoạn 2016-2020, các đơn vị quản lý của Bộ KH&CN cần đặc biệt lưu ý đến những điểm hạn chế này để tư vấn, giúp Bộ trưởng Bộ KH&CN tổ chức thực hiện tốt các chương trình KH&CN có liên quan trong thời gian tới.
“Đâu đó vẫn còn sự ‘cát cứ’ thông tin, dữ liệu ở các bộ, ngành, địa phương. Chương trình KC.01 giai đoạn 2021-2025 cần có những giải pháp để đẩy mạnh kết nối liên thông giữa các cơ sở dữ liệu. Ngoài ra, thúc đẩy chuyển giao các kết quả nghiên cứu đến các bộ ngành, địa phương, để đưa sản phẩm công nghệ vào cuộc sống, tạo tính lan tỏa, phát triển kinh tế-xã hội cũng là điều rất quan trọng trong giai đoạn tới”, Thứ trưởng Trần Văn Tùng nhấn mạnh.
Trong giai đoạn tới, Bộ KH&CN sẽ tiếp tục xây dựng và tổ chức thực hiện Chương trình nghiên cứu phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ phát triển Chính phủ số và đô thị thông minh giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030. Do đó, rầt cần sự tham gia tích cực của các bộ ngành, địa phương, các chuyên gia, nhà khoa học, các doanh nghiệp để thực hiện các nội dung của Chương trình.
Theo Báo điện tử Chính phủ